Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) định nghĩa về sức khỏe như sau: sức khỏe là tình trạng hoàn toàn thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hội, chứ không chỉ là không mắc bệnh, tật – “Health is state of complete physical, mental and social well-being and not merely the absent of disease or infirmity”. Như vậy, rõ ràng có 2 yếu tố quyết định sức khỏe của con người: yếu tố môi trường và yếu tố di truyền. Yếu tố di truyền tạo nên sức khỏe di truyền (về thể chất và tinh thần); yếu tố môi trường ảnh hưởng đến sức khỏe môi trường.

C:\Users\Administrator\Desktop\Viện DTYH\Website\New folder\CardioGeneticsLogo_moreColors.jpg

Bệnh di truyền là tính trạng/ kiểu hình bệnh lý ở người do đột biến gen và sản phẩm bất thường của biểu hiện gen gây nên. Bệnh di truyền có thể truyền từ thế hệ này sang thế hệ sau, nhưng cũng có thể xuất hiện mới mà ở bố mẹ không có (xem thêm: https://en.wikipedia.org/wiki/Genetic_disorder)

C:\Users\Administrator\Desktop\Viện DTYH\Website\New folder\Zachxmas2010.jpgC:\Users\Administrator\Desktop\Viện DTYH\Website\New folder\prader-willi1315608530296.png

Bệnh di truyền đơn gen

Bệnh chủ yếu do một gen gây ra, gen này có thể mang tính trạng lặn hoặc trội, gen có thể nằm trên NST thường hoặc NST giới tính.
  • Bệnh di truyền gen trội trên NST thường:

Các bệnh tật di truyền gen trội trên nhiễm sắc thể thường có tính chất di truyền trực tiếp từ bố mẹ cho con cái vì vậy biểu hiện liên tục qua các thế hệ. Số cá thể mắc bệnh bằng số người mang gen bệnh nên số lượng mắc bệnh thường lớn (>50% số thành viên). Cũng nhờ tính chất này nên các bệnh tật nặng nề thường dễ dàng được phát hiện và bị chọn lọc tự nhiên đào thải. Do đó các bệnh tật di truyền gen trội còn tồn tại thường nhẹ hoặc biểu hiện muộn, sau tuổi trưởng thành. Các bệnh tật di truyền gen trội biểu hiện nặng thường là các đột biến mới phát sinh. Vì gen bệnh nằm trên nhiễm sắc thể thường nên bố hay mẹ đều có thể truyền bệnh cho con trai cũng như con gái hay khả năng nhận gen bệnh của con trai và con gái từ bố mẹ là giống nhau, vì thế tỷ lệ mắc bệnh ở nam và nữ là như nhau. Biểu hiện bệnh nặng nhẹ thường phụ thuộc người đó mang gen bệnh liều đơn hay liều kép nên biểu hiện của nhóm bệnh này trong quần thể thường rất biến thiên.

Ví dụ: Tật dính ngón, thừa ngón, hội chứng Marfan (hội chứng tay vượn), bệnh u xơ thần kinh, bệnh loạn sản sụn, bệnh u nguyên bào võng mạc…

Bệnh nhân mắc bệnh u xơ thần kinh.

  • Bệnh di truyền gen lặn trên NST thường:

Các bệnh tật do gen lặn nằm trên nhiễm sắc thể thường phát bệnh khi ở trạng thái đồng hợp tử lặn. Những người này thường nhận gen bệnh từ bố mẹ là người dị hợp tử, đây là những người mang gen nhưng không có biểu hiện bệnh trên lâm sàng, vì vậy bệnh biểu hiện ngắt quãng, không liên tục. Các bệnh tật di truyền gen lặn có tỷ lệ ít nhưng trong quần thể số người mang gen bệnh lớn hơn rất nhiều. Các bệnh di truyền gen lặn tăng tỷ lệ biểu hiện ở những trường hợp kết hôn cận huyết hay ở các quần thể cô lập. Gen bệnh nằm trên nhiễm sắc thể thường nên tỷ lệ mắc bệnh ở nam nữ là ngang nhau, khả năng truyền gen bệnh của bố mẹ cho con trai và con gái cũng tương đương nhau.

Vì bệnh chỉ biểu hiện khi ở trạng thái đồng hợp tử lặn nên bệnh di truyền gen lặn biểu hiện khá sớm và đồng nhất nhưng các gen bệnh lặn khó bị phát hiện và chọn lọc tự nhiên khó tác động để đào thải. Hiện nay có khoảng > 6000 gen bệnh lặn đã được phát hiện đang tồn tại trong quần thể.

Ví dụ: Bệnh bạch tạng, bệnh xơ nang, nhóm các bệnh rối loạn chuyển hóa: galactose huyết, không dung nạp fructose…

Bệnh nhân mắc bệnh bạch tạng.

  • Bệnh di truyền gen lặn trên NST X:

Bệnh di truyền gen lặn trên nhiễm sắc thể X cũng tuân theo các tính chất của di truyền gen lặn là tỷ lệ mắc bệnh thấp, bệnh biểu hiện ngắt quãng, không liên tục qua các thế hệ.

Nam giới có cặp NST giới tính là XY, vì vậy luôn biểu hiện bệnh khi mang gen bệnh. Ở nữ, cặp NST giới là XX do đó bệnh thường biểu hiện rõ khi ở trạng thái đồng hợp tử lặn mang cả 2 gen bệnh. Đây là nguyên nhân làm cho tỷ lệ mắc loại bệnh này ở nam giới nhiều hơn nữ giới. Di truyền bệnh của nhóm này là di truyền chéo, ông ngoại truyền gen bệnh cho mẹ và truyền bệnh cho cháu ngoại.

Với những gen bệnh nằm ở vùng NST X bị bất hoạt, do tính ngẫu nhiên trong bất hoạt ở giai đoạn sớm của phôi nên bệnh có thể nặng, nhẹ hoặc hoàn toàn không biểu hiện tùy thuộc vào tỷ lệ NST X mang gen bệnh bị bất hoạt tỷ lệ ít hay nhiều.

Hiện nay số lượng gen có liên quan đến bệnh di truyền gen lặn trên NST X đã được giải trình tự là gần 500 gen, trên tổng số 983 gen nghi ngờ có liên quan.

Ví dụ: Bệnh mù màu, bệnh máu khó đông, bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne, hội chứng Fragile X, một số bệnh rối loạn chuyển hóa như thiếu hụt men G6PD, bệnh Fabry thiếu hụt men GLA…

Bệnh nhân mắc hội chứng Fragile X.

Bệnh nhân mắc hội chứng Fragile X.

Bệnh nhân mắc bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne.

     
  • Bệnh di truyền gen trội trên NST X:

Nhóm bệnh này có một số đặc điểm:

_ Thường gặp ở nữ giới nhiều hơn nam giới, tỷ lệ mắc bệnh lớn (trên 50% số cá thể trong gia đình), bệnh biểu hiện liên tục qua các thế hệ, tỷ lệ bệnh cũng bằng số người mang bệnh. Bố mắc bệnh sẽ truyền bệnh cho tất cả các con gái nhưng hoàn toàn không truyền bệnh cũng như gen bệnh cho con trai, trong khi đó mẹ bị bệnh khả năng truyền bệnh cho con trai và con gái là như nhau…

_ Một số bệnh thường gặp: bệnh còi xương kháng vitamin D…

               

Bệnh nhân mắc bệnh còi xương kháng vitamin D.

  • Bệnh di truyền gen trên NST Y:

Các bệnh tật do gen nằm trên NST Y chỉ có ở nam giới và di truyền trực tiếp từ bố cho con trai, bệnh biểu hiện ở tất cả nam giới của dòng họ.

Ví dụ: Tật thừa túm lông ở vành tai…

  • Bệnh ty thể:

Ngoài hệ gen trong nhân tế bào, tế bào còn có hệ DNA ty thể trong bào tương, các DNA ty thể này được di truyền từ mẹ sang con. Nếu người mẹ mang đột biến trong DNA ty thể thì tất cả các con đều mang đột biến đó, tuy nhiên với mức độ biểu hiện bệnh khác nhau và có thể khác sự biểu hiện ở người mẹ. Tỷ lệ đột biến DNA trong ty thể cao hơn trong nhân vì ty thể không có các cơ chế sửa chữa DNA.

Mỗi tế bào chứa một quần thể các phân tử DNA ty thể, có một số DNA ty thể mang đột biến còn một số khác thì không. Hiện tượng này được gọi là heteroplasmy, điều này rất quan trọng trong việc giải thích tính đa dạng trong biểu hiện của các bệnh lý di truyền ty thể. Tỷ lệ DNA ty thể đột biến càng lớn thì mức độ biểu hiện bệnh càng nặng.

Bệnh rối loạn NST

Bệnh di truyền NST là những bệnh di truyền do các bất thường về số lượng (thiếu hoặc thừa) NST và cấu trúc (đảo đoạn, mất đoạn, chuyển đoạn, lặp đoạn) trên NST. Những bệnh này thường xảy ra do bất thường trong quá trình tạo trứng và tinh trùng. Các nghiên cứu cho thấy, 50% trứng được thụ tinh có rối loạn nhiễm sắc thể, tuy nhiên 90% số này được chon lọc tự nhiên đào thải qua các hình thức sảy thai, thai chết lưu.

Hầu hết trẻ mắc các bệnh di truyền NST đều đa dị tật, thường có bất thường về hình thể và một số trường hợp có thể chậm phát triển tâm thần. Nguy cơ sinh con mắc bệnh rối loạn NST gia tăng theo tuổi mẹ.

  • Bệnh bất thường về số lượng NST:

Cơ chế hình thành rối loạn nhiễm sắc thể do rối loạn phân ly hoặc thất lạc khi di chuyển của NST ở kỳ sau của quá trình phân bào giảm phân tạo giao tử hay trong phân bào nguyên phân của hợp tử, cũng có thể xảy ra khi các tế bào sinh dục nguyên phân tăng số lượng trước khi bước vào giảm phân.

Nếu rối loạn xảy ra trong giảm phân sẽ tạo các giao tử thừa hoặc thiếu NST, các giao tử này nếu được thụ tinh sẽ hình thành hợp tử có 3 NST hoặc hợp tử thiếu NST.

Nếu rối loạn xảy ra trong nguyên phân phân cắt của hợp tử sẽ tạo các dòng tế bào bất thường, thừa hoặc thiếu nhiễm sắc thể. Rối loạn phân bào trong phân cắt của hợp tử thường tạo thể khảm (khi rối loạn xảy ra từ lần phân cắt thứ hai trở đi).

Những biến đổi này thường là các đột biến mới và gây hại cho cơ thể. Một số bệnh do bất thường số lượng NST:

Hội chứng NST thừa/ thiếu Biểu hiện bệnh
Down Thừa 1 NST số 21 Cổ ngắn, gáy rộng và dẹt, đầu tròn nhỏ, mũi tẹt, mắt xếch, lưỡi dài và dày, ngón tay ngắn, nếp ngang đơn độc, trí tuệ chậm phát triển, IQ 30-50, dị tật tim, ống tiêu hóa, thận.
Edwards Thừa 1 NST số 18 Trọng lượng sơ sinh thấp, tai nhỏ, vành tai vểnh ra ngoài, đầu to, hàm nhỏ, lùi ra sau, xương ức ngắn, bàn tay dị dạng, luôn nắm, ngón trỏ đè lên trên ngón giữa. Đa dị tật các cơ quan: tim, thận, ống tiêu hóa, thoát vị rốn, thoát vị hoành… Khả năng sống kém.
Patau Thừa 1 NST số 13 Dị tật khe hở môi vòm miệng, mắt nhỏ, đôi khi không có nhãn cầu, thừa ngón, chậm phát triển nặng. Dị tật nội quan tim, thận...
Thừa NST X ở nữ NST GT: XXX Dáng người cao, đầu nhỏ, chậm phát triển ngôn ngữ, có vấn đề về thính giác và vận động, khó đọc, thường hạn chế về trí tuệ.
Thừa NST Y ở nam NST giới: XYY Cao lớn, tính tình hung hăng, khó kiềm chế. Một số ít có lỗ đái lệch thấp. Khả năng sinh sản bình thường.
Turner NST GT: X Trẻ thấp bé, gương mặt không bình thường, không phát triển dậy thì, tuyến vú và bộ phận sinh dục ngoài không phát triển, có thể có dị tật tim, thận và xương, chậm phát triển trí tuệ, vô sinh.
Klinefelter Bộ NST GT (XXY) Giảm cơ bắp, người cao, chân tay dài so với cơ thể, loãng xương, vú to, sản xuất testosterone thấp, tinh hoàn nhỏ, vô sinh.
Jacobs Bộ NST GT (XYY) Chậm phát triển trí tuệ, chậm phát triển kỹ năng nói và ngôn ngữ, chậm phát triển vận động, giảm trương lực cơ, khó điều khiển hành vi và cảm xúc. Một tỷ lệ nhỏ bị tự kỷ.

Bệnh nhân mắc hội chứng Klinefelter.

Trẻ mắc hội chứng Down.

Trẻ mắc hội chứng Edwards.

Trẻ mắc hội chứng Patau.

  • Bệnh bất thường về cấu trúc NST:

Đột biến cấu trúc NST có các dạng: mất đoạn, lặp đoạn, đảo đoạn, chuyển đoạn. Nguyên nhân do di truyền từ bố mẹ hoặc do các tác nhân gây đột biến của môi trường sống tác động lên quá trình tạo trứng, tạo tinh trùng hay giai đoạn đầu của phân cắt hợp tử. Các rối loạn cấu trúc kích thước lớn có thể nhận biết được dưới kính hiển vi quang học, tuy nhiên các rối loạn mức độ nhỏ rất khó có thể phát hiện được bằng phương pháp di truyền học tế bào. Các thể mất đoạn, thêm đoạn làm thay đổi chất liệu di truyền, thường gây tác hại cho cơ thể người.

Ví dụ: Mất đoạn trên NST số 21 hoặc 22 có thể gây bệnh ung thư máu, mất đoạn trên NST số 5 gây ra hội chứng tiếng mèo kêu, hội chứng Down do chuyển đoạn giữa NST 21 với 1 NST tâm đầu khác, các mất đoạn trên nhánh ngắn hay nhánh dài của NST X, Y gây hội chứng Turner…

Những rối loạn ở mức độ rất nhỏ bao gồm vi mất đoạn (microdeletion) hoặc vi nhân đoạn (microduplication) có thể được phát hiện bằng kỹ thuật Array CGH (Comparative Genomic Hybridization microarray). Hiện tại kỹ thuật Array CGH có thể phát hiện bất thường trên genome liên quan đến khoảng 100 – 140 bệnh lý di truyền.

Một số vi mất đoạn có thể gây bệnh lý như: vi mất đoạn ở vị trí 9q22.3 (NST số 9) gây ung thư tế bào đáy Nevoid (hội chứng Gorlin), vi mất đoạn ở vị trí 15q13.3 (NST số 15) có thể gây rối loạn tự kỷ…

Đột biến tế bào sinh dưỡng gây ung thư

Ung thư là tình trạng tế bào sinh dưỡng tăng sinh vô hạn mất kiểm soát. Quá trình từ một tế bào bình thường biến đổi và phát triển thành tế bào ung thư là một quá trình phức tạp ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như đột biến trên tế bào sinh dưỡng, những thay đổi trong hệ thống miễn dịch, nội tiết, biểu hiện gen và sự truyền tín hiệu giữa các mô. Tuy nhiên, đột biến trong tế bào sinh dưỡng đóng vai trò quan trọng dẫn đến ung thư.

Nguyên nhân gây ra tình trạng mất kiểm soát này thường do các tác nhân từ môi trường ngoài (các chất gây ung thư, tia phóng xạ, nhiễm virus…) gây biến đổi DNA hoặc nguyên nhân trong bản thân tế bào (di truyền, biến đổi trong quá trình sao chép…).

Một tế bào sinh dưỡng bình thường biến đổi sang tế bào ung thư phải trải qua một vài đột biến ở một số gen nhất định, liên quan đến các gen tiền ung thư (Proto-oncogenes), gen ức chế khối u (Tumor suppressor gene) và gen sửa chữa DNA. Ung thư sinh ra bởi các đột biến tích tụ trên nhiều gen trong thời gian dài.

+ Gen tiền ung thư (Proto-oncogenes): là gen điều khiển quá trình phát triển của tế bào. Khi gen biểu hiện quá mức hoặc không biểu hiện làm rối loạn sự phân chia tế bào, tế bào phát triển vượt kiểm soát. Nguyên nhân do đột biến lặp đoạn, chuyển đoạn trên NST, nhiễm virus…

+ Gen ức chế khối u (Tumor supressor genes): là gen có chức năng làm chậm quá trình phân bào, sửa sai trên DNA, hoặc phát tín hiệu cho tế bào đi vào quy trình apoptosis (chết theo chương trình). Khi gen này bị ức chế tế bào sẽ phân chia quá nhanh và mất kiểm soát. Nguyên nhân do đột biến mất đoạn, đột biến điểm hoặc bị ức chế biểu hiện gen.

+ Lỗi trong quá trình sửa chữa DNA gây tích tụ đột biến trong quá trình phân bào.

Ví dụ:

      • Gen TP53 mã hóa cho protein P53 là điều khiển quá trình apoptosis của tế bào. Khi p53 mất chức năng, tế bào không thể đi vào apoptosis và trở nên bất tử. Đột biến ở gen TP53 có thể là nguyên nhân gây ung thư hoặc là đột biến thứ cấp xảy ra trong tế bào ung thư.
      • Gen BRCA 1 và BRCA 2 là hai gen ức chế khối u, giữ vai trò sửa chữa sai sót trên DNA trong quá trình phân bào. Đột biến trên hai gen này làm mất chức năng sửa chữa DNA, các sai sót tích tụ có thể kích hoạt các tế bào phát triển và phân chia không kiểm soát tạo thành khối u. Đột biến trên hai gen này là nguyên nhân của ung thư vú, ung thư buồng trứng và một số ung thư khác.

Đọc thêm: http://biochemistry2.ucsf.edu/programs/ptf/m3%20links/TumorSuppressLEC.pdf

Bản đồ trình tự gen của dòng tế bào ung thư vú MCF-7.

 

Trình tự gen BRCA1 p.R71G và BRCA1 345del4 ở người bình thường và người có nguy cơ ung thư.

Đột biến trên gen TP53 p.R337H

 

Bản đồ trình tự gen của dòng tế bào ung thư phổi.

Bệnh di truyền đa yếu tố

Bệnh di truyền đa yếu tố là nhóm bệnh mà kết quả bệnh là sự tương tác phức tạp giữa các yếu tố di truyền, lối sống và môi trường sống. Đây là nhóm bệnh chiếm tỷ lệ lớn nhất trong mô hình bệnh tật hiện nay và có xu hướng ngày càng gia tăng. Một số bệnh mạn tính như: tim mạch, đái tháo đường, béo phì… là những bệnh di truyền đa yếu tố thường gặp. Nguy cơ tái phát bệnh có liên quan đến tỷ lệ mắc bệnh trong gia đình, mức độ tương quan của bộ gen, độ trầm trọng của bệnh, giới tính và môi trường tiếp xúc...

Trong môi trường công nghiệp hóa, nhóm bệnh di truyền hoặc có tính di truyền ngày càng tăng mạnh và chiếm tỷ lệ lớn nhất trong mô hình bệnh tật hiện nay. Đột biến gây ra bệnh có thể đến từ nhiều nguyên nhân như do di truyền bẩm sinh hoặc bị ảnh hưởng bởi các tác nhân môi trường như vi sinh vật hoặc các chất độc hai. Đối với từng bệnh khác nhau thì mối liên hệ giữa cơ chế di truyền và bệnh là khác nhau. Những nghiên cứu ngày càng nhiều về di truyền học đã giúp các nhà khoa học có những hiểu biết sâu rộng về cơ chế di truyền của rất nhiều bệnh khác nhau, góp phần tạo nên những tiến bộ trong chẩn đoán sớm bệnh di truyền. Việc chẩn đoán sớm bệnh di truyền đóng một vai trò rất quan trọng trong việc điều trị, phòng ngừa hoặc ngăn chặn sự phát triển của bệnh.

Chẩn đoán bệnh di truyền là một quá trình phức tạp. Các bác sĩ sử dụng nhiều phương pháp tiếp cận kết hợp toàn diện với nhau để chẩn đoán cho bệnh nhân. Có ba loại hình tiếp cận chính:

  • Kiểm tra thể chất: Khám lâm sàng, quan sát các đặc điểm thể chất trên cơ thể là những gợi ý quan trọng cho việc chẩn đoán các hội chứng di truyền. Cụ thể, các bác sĩ có thể đo đạc tỉ lệ khuôn mặt, đo độ dài tay, chân, khám mắt, khám thần kinh, chụp tia X, chụp cộng hưởng từ, chụp cắt lớp vi tính…
  • Kiểm tra lịch sử sức khỏe cá nhân và gia đình: Tiểu sử sức khỏe cá nhân từ lúc sinh ra cho đến hiện tại đóng vai trò quan trọng. Thông tin về các bệnh đã mắc phải, các dị ứng, những lần chẩn đoán và điều trị bệnh trước đó góp phần giúp các bác sĩ đưa ra những chẩn đoán chính xác. Ngoài ra, thông tin về sức khỏe của các thành viên khác trong gia đình cũng là một nhân tố quan trọng. Dựa vào các thông tin này các bác sĩ có thể lập nên mô hình di truyền của gia đình.
  • Xét nghiệm di truyền: Các xét nghiệm nhiễm sắc thể, phân tử, sinh hóa được thực hiện trong phòng thí nghiệm, dựa vào các dấu ấn sinh học để chẩn đoán chính xác bệnh di truyền.

* Mục đích:

Dựa vào đối tượng của chẩn đoán có thể phân ra nhiều mục đích khác nhau có thể sử dụng chẩn đoán di truyền:

  • Sàng lọc sơ sinh: Đây là một trong những loại hình phổ biến nhất của xét nghiệm di truyền. Một mẫu máu nhỏ được trích ra từ trẻ sơ sinh trong vòng 24 giờ sau khi sinh và được dùng để phục vụ cho việc sàng lọc rất nhiều hội chứng di truyền khác nhau. Các hội chứng di truyền này nếu được sàng lọc ngay sau sinh như vậy giúp cho hiệu quả điều trị (nếu mắc phải) cao hơn rất nhiều so với các chẩn đoán trễ hơn.
  • Xét nghiệm người mang gen bệnh: Loại xét nghiệm này dành cho các cặp đôi hoặc vợ chồng mang một alen lặn gây bệnh, nhằm mục đích phân tích nếu họ có con với nhau thì nguy cơ đứa trẻ sẽ mắc bệnh là bao nhiêu. Những người xét nghiệm thường có gia đình có lịch sử mắc bệnh hoặc nằm trong một cộng đồng người có nguy cơ cao mắc bệnh.
  • Chẩn đoán trước làm tổ: Xét nghiệm này được áp dụng cho các cặp vợ chồng sử dụng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm. Tinh trùng và trứng được thụ tinh bên ngoài cơ thể mẹ để tạo thành phôi. Phôi được nhân lên sau đó tiến hành sàng lọc di truyền. Qua sàng lọc thì phôi không có bất cứ bất thường gì sẽ được cấy vào cơ thể mẹ.
  • Chẩn đoán trước sinh: Các bào thai trước khi sinh cũng có thể được kiểm tra các thay đổi bất thường của gen cũng như nhiễm sắc thể. Tuy xét nghiệm này không thể xác định được hết tất cả các hội chứng di truyền, nó thể thể làm tăng hiểu biết các cặp vợ chồng về sức khỏe thai nhi. Mẫu dùng để xét nghiệm có thể là dung dịch nước ối hoặc mẫu lông nhung màng đệm của thai phụ. Mẫu có thể được lấy từ 10-20 tuần mang thai. Mặc dù các cách xét nghiệm này đem lại kết quả rất cao cho các bất thường về nhiễm sắc thể, chúng cũng tồn tại các nguy cơ rất lớn, điển hình là khả năng gây sẩy thai không nhỏ. Một phương pháp xét nghiệm tiên tiến hiện nay, không gây nguy cơ sẩy thai là phương pháp xét nghiệm trước sinh không xâm lấn. Trong phương pháp này một mẫu máu của người mẹ được lấy ra để làm xét nghiệm di truyền. Phương pháp này đem lại hiệu quả cao nhưng vẫn đảm bảo sức khỏe của mẹ và bé.
  • Xét nghiệm chẩn đoán: Xét nghiệm này được dùng để chẩn đoán một bệnh di truyền cụ thể nào đó, dựa vào lịch sử bệnh án gia đình và các triệu chứng bệnh cá nhân. Xét nghiệm này có thể thực hiện bất cứ thời gian nào trong đời. Loại xét nghiệm này không sàng lọc hết tất cả các gen mà chỉ tập trung vào một vài gen nhất định liên quan tới bệnh.
  • Xét nghiệm tiên đoán: Xét nghiệm này được dùng để ước tính nguy cơ mắc bệnh di truyền của một người trước khi người đó có những triệu chứng bệnh cụ thể, dựa vào xét nghiệm gen. Các đối tượng cho loại xét nghiệm này thường là những người có các thành viên trong gia đình mắc bệnh, nhưng bản thân không có bất cứ triệu chứng bệnh nào.
  • Xét nghiệm di truyền dược học: Xét nghiệm này được dùng để xác định mối liên hệ giữa biến thể di truyền và sự hấp thu của cơ thể với thuốc. Thông qua kiểm tra hệ gen của từng cá nhân, các nhà khoa học có thể xác định loại thuốc, liều dùng và cách dùng thế nào là hiệu quả nhất cho bệnh nhân.

Nguyên tắc điều trị bệnh di truyền

Vì bệnh di truyền là bệnh do biến đổi vật liệu di truyền nên chúng ta không khắc phục đến tận gốc, sửa chữa những sai sót vật liệu di truyền được (trừ trường hợp ghép gen). Vì vậy, ta điều trị càng sớm thì các rối loạn về chức năng chưa có hoặc chưa ảnh hưởng tới cá thể có tật bệnh. Ngay trong trường hợp ghép gen cũng phải làm sớm khi còn là tế bào sinh dục, là hợp tử hay phôi mới ở giai đoạn có một số phôi bào, hoặc khi mầm cơ quan mới hình thành. Ghép gen ở cơ thể giai đoạn sinh trưởng, trưởng thành không thể đảm bảo các gen đi vào mọi tế bào của cơ thể, của cơ quan. Vì vậy, điều trị bệnh di truyền cần tiến hành sớm.

Trừ trường hợp ghép gen sẽ không có biểu hiện bệnh, tật di truyền, các trường hợp còn lại do không khắc phục tận gốc các sai sót di truyền nên khi điều trị, các triệu chứng có thể hết nhưng cơ chế phát sinh bệnh vẫn còn nên các bệnh, tật di truyền phải điều trị lâu dài, hầu hết phải điều trị suốt đời.

Ở các bệnh di truyền, nhiều khi các cơ chế di truyền khác nhau nhưng cũng gây ra một số biểu hiện lâm sàng giống nhau và thậm chí giống với một số bệnh tật do môi trường gây nên, ở các tật bệnh di truyền này dù có một số biểu hiện giống nhau nhưng phương pháp điều trị lại phải khác nhau.

Như vậy, nguyên tắc chung của điều trị bệnh di truyền là: phát hiện sớm, điều trị kịp thời, lâu dài và cần áp dụng phương pháp điều trị thích hợp cho từng bệnh.

Phương pháp điều trị đặc hiệu

  • Phương pháp tránh

Phương pháp này áp dụng khi xác định được cơ thể không có khả năng chuyển hoá được một số chất nào đó. Cách điều trị là tránh và loại bỏ những chất cơ thể không chuyển hoá được trong chế độ ăn, thường gọi là điều trị bằng tiết chế dinh dưỡng. Với phương pháp điều trị này, kết quả điều trị phụ thuộc vào chế độ điều trị, cần điều trị sớm, suốt đời và nghiêm ngặt.

  • Phương pháp bổ sung

Áp dụng cho trường hợp cơ thể không tổng hợp được một số chất cần thiết. Biện pháp điều trị ở đây là bổ sung cho cơ thể những chất cần thiết đó.

  • Phương pháp loại bỏ

Trong một số bệnh di truyền có sự tích lũy quá mức các sản phẩm của quá trình chuyển hoá, hoặc xuất hiện các sản phẩm bất thường gây độc cho cơ thể, loại bỏ các chất này ra khỏi cơ thể là biện pháp điều trị có hiệu quả.

  • Thay thế mô hoặc cơ quan

Phương pháp này được áp dụng ở nhiều nước có điều kiện y tế, trang thiết bị y tế tốt. Ghép tuỷ xương trong một số bệnh về máu, ghép thận trong một số bệnh suy thận...

  • Liệu pháp gen

Việc tách ghép gen hiện tại chưa đạt đến trình độ sửa chữa được các sai lạc của gen mà chỉ ở mức bù cho bệnh nhân gen bình thường (không cắt bỏ gen bệnh đi mà chỉ ghép thêm gen bình thường), gen này hoạt động bổ sung cho cơ thể. Trong thực nghiệm, người ta dùng phương pháp lai tế bào để bổ sung một số gen mà tế bào người bệnh bị đột biến.

Việc xác định các đột biến bệnh nhân tiềm ẩn dẫn đến một sự hiểu biết tốt hơn về cơ chế sinh bệnh của các rối loạn và kỳ vọng rất nhiều có thể đóng một vai trò quan trọng trong chiến lược điều trị trong tương lai.

Các thử nghiệm lâm sàng đầu tiên ở người đã được khởi xướng vào năm 1990 và có hơn 150 trong số đo đã được phê duyệt. Thử nghiệm trên người tất cả đều nhằm mục đích thay đổi vật chất di truyền vật chất và chức năng của các tế bào sinh dưỡng. Mặc dù liệu pháp gen liên quan đến tế bào sinh dục đã thành công trong nghiên cứu động vật (Ví dụ chữa bệnh thiếu máu ở chuột) nhưng không đươc áp dụng cho tế bào sinh dục ở người vì đạo đức và nhiều vấn đề an toàn.

Phương pháp trị liệu gen cổ điển là để đưa một gen bình thường vào tế bào để sản xuất ra một loại protein bị thiếu hoặc mất chức năng, hay để cung cấp một gen có một chức năng mới. Liêu pháp thêm gen vào như thê này phù hợp với điều kiện đó là do sự thiếu hụt của một sản phẩm gen đặc biệt nào. Bệnh di truyền lặn trên NST thường và NST X sẽ là những đối tượng tốt nhất cho cách tiếp cận này vì hầu hết là do mất đột biến chức năng dẫn đến thiếu hoặc sản phẩm gen khiếm khuyết. Liệu pháp thêm vào có vẻ như không thành công trong các rối loạn di truyền trội trên NST thường vì gen dị hợp tử bị ảnh hưởng đã được sản xuất 50% mức bình thường sản phẩm gen từ alen bình thường của họ. Trong những trường hợp này, gen điều trị không có khả năng khôi phục sản xuất sản phẩm gen dẫn đến hiệu quả điều trị thấp. Trong rối loạn ung thư các phương pháp trị liệu gen cổ điển nhằm mục đích đưa các gen có sản phẩm giúp tiêu diệt các tế bào ác tính. Các gen đưa vào có thể sản xuất ra các chất có độc nhưng như các tiền chất để hỗ trợ giết chết các tế bào bằng cách thông thường dùng hoặc gây đáp ứng miễn dịch chống lại các tế bào ung thư.

Thao tác di truyền có thể diễn ra ngoài cơ (ex vivo) thể hoặc trong cơ thể (in vivo). Trong thí nghiệm ngoài cơ thể, các tế bào được lấy ra và nuôi trước khi được thao tác và thay thế. Cách này là khả thi cho các liệu pháp liên quan đến tế như các tế bào haemopoetic và các tế bào da có thể được dễ dàng nuôi cấy. Ngược lại là in vivo, phần sửa đổi sẽ được đưa trực tiếp vào từng cá nhân.

Để có hiệu quả, liệu pháp thêm vào này (augmentation) đòi hỏi phương pháp để đảm bảo sự an toàn, hiệu quả và ổn định của gen đưa vào tế bào người. Việc sản xuất đầy đủ lượng của sản phẩm gen trong các tế bào và các mô thích hợp cần thiết kết hợp với kiểm soát biểu hiện gen và giám sát hiệu quả điều trị. Trước khi áp dụng liệu pháp gen lên con người, các nghiên cứu in vitro (trong ống nghiệm) là cần thiết cùng với bằng chứng về hiệu quả và an toàn trong mô hình động vật. Các khả năng đột biến ghép và sự nguy hiểm của hiện gen trong các mô không phù hợp cần phải được xem xét. Cũng có thể có các phản ứng miễn dịch gắn kết với các vector virus hoặc gen tự tạo sản phẩm mới trong cơ thể người nhận.

  • Phương pháp truyền tế bào gốc

Tế bào gốc là những tế bào chưa biệt hóa, khi vào cơ thể, ở những mô bệnh, các tế bào này có thể biệt hóa thành những tế bào lành có thể thực hiện được đầy đủ chức năng của mô đó. Ứng dụng tế bào gốc ngày càng phát triển, mở ra cơ hội điều trị tận gốc cho nhóm bệnh, tật di truyền.

Phương pháp điều trị không đặc hiệu

Đây là các phương pháp điều trị triệu chứng.

  • Phẫu thuật chỉnh hình: được dùng trong các dị tật về hình thái như sứt môi, hở hàm, thừa ngón, dính ngón, dị dạng cơ quan sinh dục…
  • Phương pháp thể dục liệu pháp: được áp dụng trong các trường hợp bệnh loạn dưỡng cơ, phương pháp này thường được kết hợp với phương pháp bổ sung như bổ sung acid amin, bổ sung hormon thích hợp...
  • Phương pháp truyền máu: thường được dùng trong một số bệnh về máu, trong những trường hợp có tăng huỷ tế bào máu thì người ta còn kết hợp cắt lách để giảm tốc độ huỷ các tế bào máu trong cơ thể.
  • Phương pháp dùng hormon: phương pháp này thường được áp dụng với những trường hợp có rối loạn về giới hay chậm phát triển thể chất, nhi tính.

Nhìn chung, sau khi xác định được cơ chế di truyền của bệnh, tật, tuỳ từng bệnh, tật di truyền, ta tìm phương pháp điều trị thích hợp. Trong nhiều trường hợp, phải kết hợp nhiều biện pháp khác nhau mới có hiệu quả tốt cho điều trị.

Nhằm mục đích ưu sinh học, để có sức khoẻ tốt, dự phòng và dự báo các bệnh, tật di truyền, để có thế hệ sau khoẻ mạnh, phát triển tốt, ngăn ngừa sự tồn tại các gen bệnh trong quần thể cần có tư vấn di truyền về gia sử sức khỏe cũng như thực hiện các xét nghiệm di truyền. Qua đó nhận được lời khuyên cũng như là hiện trạng sức khỏe của mình.

Tư vấn di truyền

Tư vấn di truyền là một ngành chuyên môn của di truyền y học. người làm tư vấn di truyền vừa phải có kinh nghiệm lâm sàng, vừa phải có kiến thức về di truyền. Hệ thống tư vấn di truyền được tổ chức từ trung ương đến các địa phương. Với sự hỗ trợ của chẩn đoán trước sinh, tư vấn di truyền góp phần làm giảm tỷ lệ bệnh di truyền trong các gia đình, qua đó làm giảm sự xuất hiện bệnh tật di truyền trong quần thể.

Tuỳ theo đối tượng nhận lời khuyên, tư vấn di truyền có những nhiệm vụ cụ thể:

- Lời khuyên cho người bị tật, bệnh:

Với đối tượng này nhiệm vụ của người làm tư vấn là giải thích rõ cho người bị tật, bệnh di truyền hiểu tại sao họ lại mắc tật, bệnh. đồng thời giải thích khả năng truyền bệnh của họ cho con cái sau này. Nêu rõ khả năng điều trị, phục hồi chức năng và khả năng hoà nhập cộng đồng của họ.

- Lời khuyên cho gia đình người bị tật, bệnh:

Trong quá trình cho lời khuyên di truyền, một câu hỏi thường được đặt ra là: liệu vợ chồng chúng tôi có nên sinh con nữa hay thôi? để trả lời câu hỏi này, cần tìm hiểu rõ tiền sử gia đình, tiến hành các xét nghiệm cần thiết cho người bị tật bệnh và những người có liên quan (cha, mẹ, anh chị em...). Trên cơ sở kết quả các xét nghiệm, kết hợp với phân tích gia hệ người làm tư vấn tính toán khả năng tái xuất hiện bệnh, tật để trả lời cho bẹnh nhân và người nhà bệnh nhân. Theo tần số tái xuất hiện bệnh, có 3 khả năng xảy ra:

+ Nếu nguy cơ tái xuất hiện bệnh, tật nhỏ (theo quy ước quốc tế 1-4%) thì cặp vợ chồng đó có thể tiếp tục sinh con nếu họ còn nguyện vọng.

+ Nếu nguy cơ lớn (theo quy ước quốc tế 5-20 %) thì gia đình nên cân nhắc.

+ Nếu nguy cơ nhắc lại trên 50% thì không nên sinh đẻ tiếp, chỉ nên tiếp tục sinh khi có sự hỗ trợ của chương trình chẩn đoán trước sinh giúp phân biệt được thai lành hay bệnh.

Tuy nhiên, quy đinh các mốc thế nào là có thể tiếp tục sinh con, cần cân nhắc và không nên tiếp tục sinh đẻ còn tuỳ thuộc vào tình trạng bệnh, tật nặng hay nhẹ, khả năng của từng nước trong việc điều trị, khắc phục và khả năng chẩn đoán trước sinh các tật bệnh di truyền.

- Lời khuyên di truyền đối với xã hội:

Những trường hợp bị bệnh tật di truyền, đặc biệt là các dị tật không những là gánh nặng cho gia đình mà còn là gánh nặng cho xã hội. Vì vậy, cần có những tổ chức xã hội lo đời sống cho những đứa trẻ tật nguyền. Bằng lời khuyên di truyền hạn chế sự ra đời của những trẻ bị tật nguyền là biện pháp giảm bớt gánh nặng cho gia đình đồng thời cũng giảm bớt những khó khăn cho xã hội, góp phần cải thiện chất lượng sinh sản, thực hiện ưu sinh học cho cộng đồng, nâng cao chất lượng cuộc sống.

Sau khi trao đổi với các chuyên gia y tế, các cá nhân có thể thực hiện các xét nghiệm di truyền được yêu cầu. Trong môi trường công nghiệp hóa, nhóm bệnh di truyền hoặc có tính di truyền ngày càng tăng mạnh và chiếm tỷ lệ lớn nhất trong mô hình bệnh tật hiện nay. Việc chẩn đoán sớm bệnh di truyền đóng một vai trò rất quan trọng trong việc điều trị, phòng ngừa hoặc ngăn chặn sự phát triển của bệnh.

Ngoài ra còn dự phòng và dự báo bệnh di truyền còn nhờ vào quá trình chẩn đoán và tầm soát bệnh di truyền (đọc thêm Chẩn đoán và tầm soát bệnh di truyền).

C:\Users\Administrator\Desktop\Viện DTYH\Sinh hoạt khoa học\P4\hood-leroy-750xx1000-1333-0-0.jpg

Giáo sư Leroy Hood: A change of view that change everything.

  • Y học phòng ngừa (Preventive medicine)
Y học phòng ngừa bao gồm tất cả các biện pháp hạn chế tiến triển của bệnh ở giai đoạn nào của quá trình của nó. Hội bác sĩ gia đình Canada vào tháng 11 năm 1974 đã phân biệt giữa phòng ngừa sơ cấp, các biện pháp được áp dụng để ngăn chặn sự xuất hiện của một bệnh, và phòng ngừa thứ cấp, ngăn chặn hay đẩy lùi tại bất kì điểm nào sau khởi phát của bệnh. Phòng ngừa sơ cấp bao gồm các thao tác quản lí môi trường xung quanh của một người, nguồn cung cấp nước của mình, không khí thở, chủng ngừa chống lại bệnh truyền nhiễm. Phòng ngừa thứ cấp bao gồm các liệu pháp để ngăn chặn sự lây lan của bệnh đối với cá nhân không bị ảnh hưởng, nhận dạng những người trong giai đoạn đầu của quá trình bệnh khi điều trị có hiệu quả nhất, và cuối cùng là phòng ngừa hoặc làm chậm trễ những hậu quả phát triển lâm sàng của bệnh bằng cách kết hợp điều trị và phục hồi.
  • Y học dự báo (Predictive medicine)
Y học dự báo là một lĩnh vực chăm sóc sức khỏe mới nhưng đầy hứa hẹn và phát triển vượt trội so với các ngành khác nhờ sử dụng công nghệ máy tính. Về cơ bản, y học dự báo sử dụng các xét nghiệm di truyền để xác định xác suất của một người phát triển một căn bệnh nhất định. Sử dụng chỉ thị sinh học thông báo cho mọi người trong các điều kiện y tế mà họ đang tiếp xúc và nó cho thấy các chất - chẳng hạn như một số hóa chất sử dụng tại nơi làm việc - đó là có khả năng sẽ làm cho họ bị bệnh. Lợi ích của y học dự báo là khả năng ngăn ngừa bệnh tật, điều trị bệnh nhân trước khi họ bị bệnh, và để khuyến khích họ thay đổi lối sống không lành mạnh làm thuốc tiên đoán rất hấp dẫn đối với nhiều người. Tuy nhiên, cũng có một số câu hỏi phức tạp về lợi ích sử dụng các xét nghiệm di truyền và kết quả.
  • Y học chính xác (Personalized medicine)
Theo Viện Y tế Quốc gia Hoa Kì (NIH), y học chính xác là "một cách tiếp cận mới nổi để điều trị và phòng ngừa mà sẽ đưa vào tài khoản mỗi cá nhân các biến đổi trong gen, môi trường và lối sống cho mỗi người." Cách tiếp cận này sẽ cho phép các bác sĩ và các nhà nghiên cứu dự đoán chính xác hơn và có chiến lược phòng ngừa và điều trị cho một bệnh cụ thể sẽ làm việc trong những nhóm người nào. Nó trái ngược với một cách tiếp cận "một cỡ vừa cho tất cả", trong đó các chiến lược điều trị bệnh và phòng ngừa được phát triển cho người trung bình, với việc xem xét ít cho sự khác biệt giữa các cá nhân. Mặc dù thuật ngữ "y học chính xác" là tương đối mới, khái niệm đã là một phần của chăm sóc sức khỏe trong nhiều năm. Ví dụ, một người cần được truyền máu không được nhận từ một người hiến tặng được lựa chọn ngẫu nhiên; thay vào đó, nhóm máu của người hiến tặng phù hợp với người nhận để làm giảm nguy cơ biến chứng. Mặc dù ví dụ có thể được tìm thấy trong một số lĩnh vực của y học, vai trò của y học chính xác trong chăm sóc sức khỏe ngày qua ngày là tương đối hạn chế. Các nhà nghiên cứu hy vọng rằng phương pháp này sẽ mở rộng ra nhiều lĩnh vực y tế trong những năm tới.
  • Y học tham gia (Participatory medicine)
Sự hội tụ của hệ thống y học phát triển, kho dữ liệu lớn và sự tham gia ngày càng nhiều của bệnh nhân trong việc chăm sóc sức khỏe cho chính mình thông qua các mạng xã hội đã tạo ra nhiều loại y học khác nhau, như là y học phòng ngừa, y học dự báo, y học chính xác và y học tham gia (P4). Ba Ps đầu tiên, phòng ngừa, dự báo và chính xác, đã được mô tả trong những năm 2000, trong khi P thứ tư, y học tham gia, được bổ sung sau. Y học tham gia một mạng kết nối, một mô hình hợp tác chăm sóc sức khỏe giữa những bệnh nhân, các chuyên gia, người chăm sóc và những người khác quan tâm đến tất cả các vấn đề sức khỏe cá nhân. Trong mô hình kết nối đó, bệnh nhân không chỉ là hành khách đơn thuần mà sẽ tự chịu trách nhiệm, đưa ra các quyết định về sức khỏe của họ, dưới sự khuyến khích động viên, cũng như lời khuyên chuyên môn của những nhà cung cấp. Với “y học tham gia”, quyền dược trao cho bệnh nhân, giúp họ cải thiện sức khỏe thông qua việc dễ dàng truy cập vào các dịch vụ chăm sóc y tế, nâng cao khả năng liên lạc giữa các nhà cung cấp và bệnh nhân. Y học tham gia là một phương pháp hợp lý, đầy nhân văn khi đồng thời chăm sóc, cũng như cam đoan nâng cao kết quả và giảm sai sót y tế, tăng sự hài lòng của bệnh nhân và cải thiện các chi phí chăm sóc.